Về pyridine
Pyridinđược tổng hợp lần đầu tiên vào năm 1876 từ axetilen và hydro xyanua. Phản ứng của anđehit hoặc xeton với amoniac là phản ứng tổng hợp phổ biến nhất để sản xuất bazơ pyridine và cho phép điều chế nhiều dẫn xuất pyridine khác nhau. Phản ứng của axetilen và fomanđehit với amoniac là phương pháp được sử dụng rộng rãi nhất để sản xuất pyridine. Pyridine cũng có thể được điều chế từ cyclopentadiene bằng cách ammoxidation, hoặc từ 2-pentenenitrile bằng cách tạo vòng và tách hydro. Furfuryl alcohol hoặc furfural phản ứng với amoniac trong pha khí để tạo ra pyridine.
Pyridine được sử dụng rộng rãi như một dung môi trong hóa học hữu cơ và trong thực hành công nghiệp.
Pyridine là một dung môi bazơ hiệu quả, tương đối không phản ứng, khiến nó trở thành chất khử axit tốt. Pyridine là dung môi được lựa chọn cho các phản ứng acyl hóa và khử clo. Nó cũng được sử dụng làm dung môi cho sơn, cao su, dược phẩm, nhựa polycarbonate và chất chống thấm nước cho vải. Một lượng lớn pyridine được sử dụng
như một chất trung gian trong sản xuất các pyridin thay thế, piperidin, hóa chất nông nghiệp (thuốc diệt cỏ: diquat, paraquat; thuốc trừ sâu: chlorpyrifos; thuốc diệt nấm: pyrithione), dược phẩm và các sản phẩm khác.